Trị vì Mary_I_của_Anh

Hôn nhân

Ở tuổi 37, Mary chú tâm đến việc lập gia đình và có con nối ngôi nhằm ngăn cản Lady Elizabeth, một tín hữu Kháng Cách lên ngôi (theo Đạo luật Kế vị 1554, và theo chúc thư của Henry VIII, Elizabeth vẫn là người kế vị). Dù Edward Courtenay và Reginald Pole được xem là những người có triển vọng, nhưng anh họ của Mary là Hoàng đế Charles V khuyên bà nên kết hôn với con trai duy nhất của ông, Hoàng tử Philip.[73] Philip đã có một con trai từ cuộc hôn nhân trước; ông cũng là người thừa kế những lãnh thổ rộng lớn ở châu ÂuTân Thế giới. Một bức chân dung của Philip được gởi đến Mary trong tháng 9, 1553.[74]

Philip II của Tây Ban Nha, tranh Tiziano Vecelli (1551).

Quan Chưởng ấn Gardiner và Hạ Nghị viện nài xin Nữ vương kết hôn với một người Anh vì e rằng nước Anh sẽ bị phụ thuộc nhà Habsburg của Thánh chế La Mã[75]. Cuộc hôn nhân này giữa Mary và Philip rất mất lòng dân; Gardiner và đồng minh của ông đề kháng vì muốn bảo vệ quyền lợi quốc gia, còn người Kháng Cách thì e sợ Công giáo.[76] Khi Mary tỏ ý kiên quyết kết hôn với Philip liền bùng nổ các cuộc nổi dậy. Việc Thomas Wyatt lãnh đạo một lực lượng nổi dậy từ Kent nhằm lật đổ Mary để tôn vương Elizabeth là một phần trong cuộc bạo loạn liên quan đến Công tước Suffolk, cha của Lady Jane.[77] Mary công khai tuyên bố sẽ triệu tập Quốc hội để xem xét vấn đề hôn nhân, nếu Quốc hội quyết định rằng cuộc hôn nhân đi ngược với quyền lợi của vương quốc, bà sẽ đổi ý.[78] Trên đường đến Luân Đôn, Wyatt bị bắt giữ. Wyatt, Công tước Suffolk và con gái, Lady Jane, bị xử tử. Courtnay, có liên can đến vụ nổi dậy, bị tống giam, rồi đào thoát. Elizabeth, dù đã biện minh cho sự vô tội của mình, bị giam giữ tại Tháp Luân Đôn trong hai tháng rồi bị quản thúc trong Cung Woodstock.[79]

Trong lịch sử nước Anh, nếu không kể những ngày trị vì ngắn ngủi của Jane GreyHoàng hậu Matilda, Mary là Nữ vương đầu tiên của đất nước. Hơn nữa theo tập quán "jure uxoris" ở Châu Âu qua quan hệ hôn nhân, người chồng được hưởng tài sản và danh hiệu của vợ (xem ví dụ Philip I của CastillaJoanna I của Castilla), người ta e rằng phu quân tương lai của Nữ vương sẽ trở thành Quốc vương nước Anh (King of England), cả trên danh nghĩa lẫn thực quyền[80]. Bên cạnh đó, cả Mary và Philip đều là hậu duệ của John xứ Gaunt, Công tước Lancaster, và mối quan hệ này được sử dụng để củng cố quyền hạnh Philip trở thành Quốc vương của Anh[81]. Theo các điều khoản của thỏa ước hôn nhân, Philip sẽ là "Vua Anh", mọi văn kiện chính thức (kể cả các đạo luật của Quốc hội) đều ghi tên cả hai, Quốc hội cũng sẽ được triệu tập dưới thẩm quyền chung của hai người, suốt trong lúc Mary còn sống. Nước Anh không có nghĩa vụ cung ứng hỗ trợ quân sự cho phụ vương của Philip trong bất cứ cuộc chiến nào, và mọi quyết định của Philip phải có sự đồng thuận của vợ, ông cũng không được bổ nhiệm người nước ngoài vào các chức vụ trong nước Anh.[82] Dù không hài lòng, nhưng Philip sẵn sàng chấp nhận để có thể kết hôn với Mary[83]. Đối với Mary, ông chẳng có chút xúc cảm nào, nhưng cưới vợ vì mưu cầu lợi ích chính trị và vì những mục tiêu chiến lược. Ruy Gómez de Silva, một tùy tùng của Philip, khi ở Bỉ đã viết trong một bức thư, "chẳng có chút ham muốn thể xác nào trong cuộc hôn nhân này, tất cả chỉ nhằm giải quyết những bất ổn của vương quốc này và để bảo toàn lãnh thổ ở vùng hạ địa"[84][85].

Để nâng tầm con trai mình ngang hàng với Mary, Hoàng đế Charles V cuối cùng nhượng quyền cai trị Naples và Vương quốc Jerusalem cho Philip. Do đó, Mary trở thành Vương hậu NaplesJerusalem.[86] Ngày 25 tháng 7, 1554, hôn lễ tổ chức tại Đại giáo đường Winchester, hai ngày sau khi họ gặp nhau lần đầu.[87] Bởi vì Philip không biết tiếng Anh nên hai người nói chuyện với nhau bằng loại ngôn ngữ pha trộn giữa tiếng Tây Ban Nha, Pháp, và La-tinh[88].

Tháng 9 năm 1554, Mary lên cân, và nôn ói vào buổi sáng. Toàn thể triều đình, kể cả các bác sĩ, đều tin Mary đang mang thai.[89] Quốc hội thông qua luật bổ nhiệm Philip là nhiếp chính trong trường hợp Mary chết khi sinh nở.[90] Cuối tháng 4 năm 1555, Elizabeth được trả tự do để làm nhân chứng cho sự sinh nở của Mary, ai cũng tin là đang đến gần.[91] Theo sứ thần Venice, Giovanni Michieli, Philip đã có kế hoạch cầu hôn với Elizabeth nếu Mary tử vong khi sinh. Dù vậy, trong một bức thư gởi em rể, Maximilian của Áo, Philip không biết chắc vợ mình có mang thai hay không.[92] Giáo phận Luân Đôn cử hành lễ tạ ơn vì tin đồn Nữ vương đã sinh con trai được loan truyền khắp Châu Âu.[93] Từ giữa tháng 5 và tháng 6, người ta bắt đầu nghi ngờ việc mang thai của Nữ vương, đến tháng 7 thì mọi việc đã rõ ràng đó chỉ là tin đồn không chính xác, những triệu chứng được xem là "mang thai" này được đánh giá có lẽ do sự khao khát quá mức của Mary.[94] Tháng 8, trong thất vọng ê chề, Philip rời nước Anh dẫn quân đánh Pháp tại Flanders.[95] Mary đau khổ đến nỗi trầm cảm. Michieli viết rằng Nữ vương "cực kỳ yêu chồng", và đau khổ khôn nguôi khi ông bỏ đi.[96]

Elizabeth được ở lại triều đình.[97] Biết Mary không thể có con, Philip nài ép vợ gả Elizabeth cho anh họ của ông, Công tước Savoy, để nước Anh luôn có quân vương Công giáo, và để bảo toàn quyền lợi Nhà Habsburg ở nước Anh, nhưng Elizabeth từ chối mà Quốc hội cũng không muốn.[98]

Chính sách tôn giáo

Tấm biển tại Maidstone, Kent, ghi: "Năm 1557, gần địa điểm này, bảy người bị hỏa thiêu vì đức tin của họ".

Sau khi đăng quang, Mary ra thông cáo sẽ không ép buộc thần dân phải theo tôn giáo của bà, nhưng đến cuối tháng 9, những giáo sĩ chủ trương cải cách như John Bradford, John Rogers, John Hooper, Hugh Latimer, và Thomas Cranmer đều bị tống giam.[99] Quốc hội đầu tiên dưới triều Mary, họp vào đầu tháng 10, 1553, tuyên bố hôn nhân của song thân Nữ vương là hợp lệ, và hủy bỏ các luật lệ tôn giáo dưới triều Edward.[100] Nền thần học của Giáo hội trở lại với thời kỳ trước cải cách, "Sáu Tín điều" năm 1539 được phục hồi với các điều khoản như tái xác nhận quy định độc thân cho giới tăng lữ. Những linh mục đã kết hôn bị trục xuất của giáo sở.[101]

Mary luôn chống lại quyết định của Henry VIII tách khỏi Rô-ma và nỗ lực của Edward VI thiết lập giáo hội Kháng Cách. Cùng với chồng, Mary muốn nước Anh hòa giải với Rô-ma. Philip thuyết phục Quốc hội hủy bỏ luật tôn giáo đã thông qua dưới triều Henry để đưa Giáo hội Anh trở lại thần phục Rô-ma. Mất vài tháng mới có được sự đồng thuận, và Mary cùng Giáo hoàng Julius III phải chấp nhận một số nhượng bộ: không thu hồi đất của các tu viện hiện đang ở trong tay những chủ đất mới là những người có nhiều ảnh hưởng.[102] Đến cuối năm 1554, Giáo hoàng phê chuẩn thỏa thuận, và Đạo luật Dị giáo được phục hồi.[103]

Khi Đạo luật Dị giáo được áp dụng, nhiều người Kháng Cách bị hành quyết trong thời kỳ bách hại dưới triều Mary.[104] Nhiều người Kháng Cách giàu có, như John Foxe, chọn sống lưu vong, có khoảng 800 người rời bỏ nước Anh. Những cuộc hành quyết đầu tiên diễn ra trong năm ngày vào đầu tháng 2, 1555: John Rogers bị hành hình ngày 4 tháng 2, Laurence Saunders ngày 8 tháng 2, Rowland Taylor và John Hooper ngày 9 tháng 2.[105] Tổng Giám mục Canterbury đang bị cầm tù, Thomas Cranmer, bị buộc phải chứng kiến hai Giám mục Nicholas Ridley và Hug Latimer bị thiêu sống. Đến ngày ông bị hỏa thiêu, Cranmer chịu cải đạo.[106]

Theo quy trình thông thường của luật pháp, lẽ ra ông được xá tội vì đã hối cải. Song, Mary không chịu ân xá cho Cranmer. Khi lên giàn hỏa thiêu, trong một hành động gây nhiều xúc động, Cranmer rút lại lời chối bỏ đức tin Kháng Cách.[107] Tổng cộng có 283 người bị hành hình, trong đó có 56 phụ nữ, hầu hết là bị hỏa thiêu.[108] Các vụ hỏa thiêu đã gây nhiều bất bình đến nỗi Alfonso de Castro, một trong những tùy tùng của Philip, cũng lên án chúng.[109] Cố vấn của Philip, Simon Renard, cảnh báo Philip rằng "sự thực thi luật pháp cách tàn bạo" như thế có thể "gây ra một cuộc cách mạng".[110] Mary vẫn kiên trì theo đuổi chính sách này cho đến khi băng hà, đã góp phần làm gia tăng tinh thần chống Công giáo và chống Tây Ban Nha trong dân chúng Anh,[111] trong khi các nạn nhân của cuộc bách hại được tán tụng như là những người tuẫn đạo.[112]

Tháng 11, 1554, Reginald Pole, người từng được kể tên trong số các ứng viên có thể trở thành phu quân của Mary, trở về như là sứ thần của Giáo hoàng.[113] Pole được phong linh mục và bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Canterbury ngay sau khi Cranmer bị hỏa thiêu trong tháng 3, 1556.[114][115]

Chính sách ngoại giao

Đẩy mạnh quyết sách chinh phục Ireland của Nhà Tudor, dưới triều Mary dân Anh được đưa đến định cư tại vùng Midlands nhằm giảm thiểu các cuộc tấn kích vào Pale (khu vực bao quanh Dublin đang dưới quyền kiểm soát của Anh). Hai quận Queen và King được thành lập, người ta bắt đầu khai hoang và lập đồn điền.[116] Những thị trấn quan trọng trong vùng được đặt tên là Maryborough (nay là Portlaoise) và Philipstown (nay là Daingean).

Tháng 1, 1556, cha của Phillip thoái vị, Phillip trở thành Quốc vương Tây Ban Nha với Mary là Vương hậu. Họ vẫn sống xa nhau; khi Philip được tuyên bố là vua ở Brussels, Mary vẫn ở Anh. Tháng 2, 1556, Philip thương thuyết để có cuộc hưu chiến ngắn ngủi với Pháp. Tháng sau, đại sứ Pháp tại Anh, Antoine de Noailles, có liên can đến một âm mưu chống lại Mary khi Sir Henry Dudley, cháu họ của Công tước Northumberland, mưu chiêu tập binh mã tại Pháp. Dudley bị phản bội, những người liên can đang ở Anh đều bị vây bắt. Dudley sống lưu vong tại Pháp, Noailles rời khỏi Anh.[117]

Từ tháng 3 đến tháng 7, 1557, Philip về Anh để thuyết phục Mary ủng hộ Tây Ban Nha trong cuộc chiến chống Pháp. Mary muốn tuyên chiến nhưng bị các cố vấn chống đối bởi vì sẽ tổn hại cho thương mại với Pháp. Vả lại, như thế là vi phạm thỏa ước hôn nhân; hơn nữa nền kinh tế èo uột thừa hưởng từ Edward đang bị tác động mạnh bởi thất mùa triền miên do thời tiết xấu đã khiến nước Anh thiếu hụt trầm trọng tài chính và nguồn tiếp liệu.[118] Người Anh chỉ chịu tuyên chiến sau khi Thomas Stafford, cháu của Reginald Pole, đem quân đánh nước Anh với sự trợ giúp của Pháp nhằm phế truất Mary.[119] Hệ quả của cuộc chiến là mối quan hệ giữa Anh và Giáo hoàng trở nên căng thẳng bởi vì Giáo hoàng Paul VI là đồng minh với Vua Henry II của Pháp.[120] Tháng 1, 1558, quân Pháp chiếm Calais, lãnh thổ còn sót lại trên lục địa Âu châu thuộc chủ quyền của Anh. Mặc dù Calais là một gánh nặng tài chính cho đất nước, mất Calais lại là một tổn thất về ý thức hệ khiến uy tín của Mary bị sút giảm.[121]

Thương mại và Tài chính

Nước Anh trong những năm trị vì của Mary luôn ẩm ướt do mưa triền miên cùng lũ lụt dẫn đến đói kém.[122] Một khó khăn khác nữa là sự suy giảm trong buôn bán vải vóc với Antwerp.[123] Dù Nữ vương kết hôn với Philip, nước Anh chẳng hưởng lợi gì từ nền thương mại khổng lồ có lợi tức lớn giữa Tây Ban Nha với Tân thế giới.[124] Người Tây Ban Nha cẩn thận canh giữ lộ trình thương mại của họ, mà Mary không thể bỏ qua cho những thương vụ bất hợp pháp (thực chất là cướp biển) bởi vì bà là Vương hậu Tây Ban Nha.[125]

Cố gia tăng mậu dịch và cứu vãn nền kinh tế, các cố vấn của Mary tiếp nối chính sách của Northumberland nhằm tìm kiếm những cơ hội thương mại mới. Mary cho thành lập Công ty Muscovy buôn bán với Nga,[126] ra lệnh Diogo Homem lập bản đồ thế giới.[127] Những nhà thám hiểm như John Lok và William Towerson giong buồm đi về hướng nam nhằm kết nối với bờ biển châu Phi.[128]

Về tài chính, chính quyền của Mary chọn cách dung hòa giữa hình thái chính quyền hiện đại, với chi phí cao, và hệ thống thu thuế thời Trung cổ.[129] Nữ vương duy trì chức Bộ trưởng Ngân khố từ thời Edward cho William Paulet, Hầu tước Winchester. Chính quyền cũng cho phát hành bộ mức thuế (1558) liệt kê các loại thuế cho mỗi mặt hàng nhập khẩu, được áp dụng cho đến năm 1604.[130]